I. I. VĂN
HỌC DI DÂN TẠI HOA KỲ
I.1. Di
dân và cộng đồng di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ
Di cư
hay di dân được coi là đặc trưng của loài
người. Từ nguồn gốc lúc đầu là ở Châu Phi, các nhóm người đã toả đi những vùng
đất khác của hành tinh này. Sự di cư thường kéo theo sự phổ biến các tư tưởng
văn hoá, tập quán kỹ thuật từ vùng này sang vùng khác. Sự truyền bá canh tác
nông nghiệp từ nhóm người mới đến tới nhóm người bản địa cho phép tăng nhanh sản
lượng lương thực. Nguyên nhân di cư của các nhóm lớn dân số thường là do thừa
dân số, sức ép dân số quá lớn, thiếu tài nguyên cơ bản. Ví dụ: sự di cư từ châu
Âu sang châu Mỹ, Úc, New Zeland…
Lịch sử
Hoa Kỳ - vùng đất mới- nói cách khác là lịch sử di dân. Từ thế kỷ XVI, khi người
Tây Ban Nha, Pháp, Anh đặt chân đến lục địa Hoa Kỳ, và tiếp theo sau đó là các
dân tộc khác từ châu Âu, châu Phi, châu Á… Hoa Kỳ là “nơi mọi thứ hòa trộn”
(“melting pot”) với khẩu hiệu “tất cả chúng ta đều là di dân”. Từ khoảng 1960,
châu Âu không còn là nguồn cung cấp dân chủ yếu sang Mỹ nữa mà thay vào đó là
châu Á và châu Mỹ Latin.
Cộng đồng di dân đông nhất tại Hoa Kỳ là Mexico. Trong số các cộng đồng
châu Á, đông nhất là Trung Quốc. Sau đây là các con số về cộng đồng châu Á sinh
sống tại Mỹ:
Trung
Quốc: 3,347,229
Ấn
Ðộ: 2,843,391
Philippines:
2,555,923
Việt
Nam: 1,548,449
Hàn
Quốc: 1,423,784
Nhật
Bản: 763,325
Các
sắc dân Á Châu khác: 2,192,151
Cộng đồng Việt Nam di dân tại Mỹ có khoảng hơn 1,5 triệu
người , chiếm
hơn một nửa số lượng người Việt Nam di dân trên toàn thế giới, là cộng đồng di
dân lớn thứ 7 ở Mỹ và thứ 4 trong cộng đồng di dân châu Á ở Mỹ, có vận tốc hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ khá nhanh và rất
thành công. Người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư mới nhất tại Hoa Kỳ,
cho nên là nhóm có tỷ lệ người lai chủng tộc khác thấp nhất trong các nhóm người
Mỹ gốc Á châu chính. Theo điều tra năm 2000, có đến 1.009.627 người 5 tuổi trở
lên tự khai rằng họ nói tiếng Việt ở nhà, tiếng Việt đứng thứ 7 trong những
ngôn ngữ phổ thông tại Hoa Kỳ. Người Việt tại Mỹ sinh sống nhiều nhất ở các tiểu
bang California (Orange County, San Jose), Virginia, Texas...
I.2.
Văn học di dân châu Á tại Hoa Kỳ
Danh từ Văn chương/Văn học Di Dân (Emigrant Literature/ Literature
of Immigrant) thường được dùng để chỉ một mảng văn chương xuất hiện ở Âu-Mỹ từ
trên 100 năm nay, có thể nói đã khởi đầu với Josept Conrad, tiếp theo là những
tên tuổi lớn như James Joyce, Thomas Mann, Samuel Beckett, Vladimir Nabokov,
Jorge Luis Borges, Gabriel Garcia Marquez…
Đi cùng với khái niệm văn học di dân còn là một số khái niệm
sau: Văn học/chương lưu vong, văn học/chương vô xứ, văn học/chương lưu đày, văn
học/chương dòng chính…
Văn học di dân là khái niệm được dùng phổ biến phổ biến
hơn cả để chỉ sáng tác của các nhà văn sống ở nước ngoài, còn được gọi là văn học hải ngoại (Oversea Literature). Tuy
vậy khái niệm văn học hải ngoại mang
tính chất địa lý, không rõ như văn học di
dân (mang khái niệm địa-chính trị). Họ có thể viết bằng tiếng mẹ đẻ (lúc
đó, nước họ đang ở sẽ gọi văn học đó là Văn
học thiểu số (Ethnic Literature) hoặc viết bằng tiếng nước sở tại, được gọi
là Văn học dòng chính (Mainstream
Literature), ví dụ đang ở Mỹ thì viết bằng tiếng Anh, đang ở Pháp thì viết bằng
tiếng Pháp (trường hợp của Linda Lê ở Pháp; Nam Le ở Úc; Monique Trương, Cáp
Kim, Amy Tan ở Mỹ…). Có một số quan điểm tranh cãi ở đây, ví dụ như Nguyễn Mộng
Giác cho rằng nói đến văn học di dân thì chỉ giới hạn các nhà văn viết bằng tiếng
mẹ đẻ .
Văn học di dân không thể bao gồm cả các nhà văn viết bằng tiếng sở tại, ông xếp
họ vào văn học dòng chính. Bản thân chúng tôi quan niệm văn học di dân mang
tính chất phi trung tâm, nghĩa là nó dung nạp cả văn học thiểu số viết bằng tiếng
mẹ đẻ, và cả văn học dòng chính. Một số tác phẩm của các nhà văn dòng chính có
thể xếp vào cả văn học nước sở tại lẫn văn học dân tộc không phải ở vấn đề ngôn
ngữ mà là những vấn đề họ phản ánh trong tác phẩm của mình có nói lên được những
vấn đề về nguồn cội (identity), về quê hương, về va đập văn hóa hai dân tộc hay
không…
Theo quan điểm của Đào Thiện Đạo, Văn học lưu vong hay văn học lưu đày (Literature of Exile) là
chỉ sáng tác của những nhà văn không chấp nhận chế độ trong nước của họ, ra nước
ngoài sinh sống hoặc tự lưu đày trên chính quê hương mình. Văn học vô xứ
là sáng tác của các nhà văn di dân đứng giữa hoặc vượt qua lằn ranh của hai ý
thức hệ - ý thức hệ đang tồn tại trên quê hương họ - và ý thức hệ đang chủ trì
trên chính nơi chốn họ đang sinh sống. Phần lớn những nhà văn vô xứ không chấp
nhận việc được coi như/sắp xếp vào khối nhà văn dòng chính/bản địa của xứ sở họ
hiện cư ngụ hoặc vào một luồng nhánh của văn chương thuộc xứ sở họ xuất thân. Họ
là những người luôn vượt qua mọi biên giới (chính trị, tôn giáo, văn hóa xã hội,
chủng tộc…) nói như Salman Rushdie, hoặc nói như Linda Lê, nhà văn vô xứ là kẻ
“có tiếng nói mở mắt người. Một tiếng nói vô xứ, bởi vì tiếng nói đó tự đặt
mình ngay trong trái tim của sự khổ đau mà không tìm cách xoa dịu sự khổ đau bằng
ngôn từ hoa mỹ.” Có thể nói tiêu biểu
cho thái độ minh bạch này là những phát biểu của Tony Morrison (xem
Playing in the Dark), Salman Rushdie (xem: Imaginary Homeland) và
Linda Lê (xem: Tu écriras sur le bonheur).
Theo Nguyễn Hưng Quốc,
nói đến lưu vong, cho đến gần đây, người ta chỉ chú ý đến hai mối quan hệ
chính: quan hệ với quê gốc và quan hệ với nơi mình đang định cư. Cả hai đều
mang tính không gian và bị ràng buộc bởi các yếu tố địa lý với những ranh giới,
những biên giới nhất định. Cả hai đều là những nơi người lưu vong không thực sự
cảm thấy gắn bó. Với quê gốc, nơi họ luôn luôn nhớ và cho là đẹp tuyệt vời thì họ
không quay trở lại. Với quê hương thứ hai, nơi họ đang sống và sẽ sống lâu dài
không những hết đời họ mà còn cả đời con cháu họ, họ lại luôn luôn cảm thấy lạc
long, không thuộc về. Bởi vậy, người ta mới nói không gian thực sự của người
lưu vong là không gian ở giữa, giữa các biên giới và giữa các nền văn hóa.
Về số lượng, trong hơn 20 năm cuối thế kỷ 20 và những năm đầu
21, con số những nhà văn di dân càng ngày càng đông đảo và tác phẩm của họ hiện
đang được độc giả khắp thế giới tán thưởng nồng nhiệt trong khi những nhà văn bản
xứ nếu không có tài năng rất dễ bị lu mờ, ít được chú ý, bị bỏ quên. Điều này
cũng có nghĩa là nhà văn di dân có độc giả trên khắp thế giới và vì vậy việc
sách của họ có được đọc ở chính quê hương họ hay không không còn là một yếu tố
quyết định trong việc sáng tác và đánh giá nữa.
Từ
năm 1965, khi luật di dân được chính phủ Mỹ công nhận, thì văn học di dân mang
một sắc thái khác. Cùng với sự khơi gợi của chủ nghĩa nữ quyền của thập niên
60, những nhà văn di dân gốc Á như Maxine Hong Kingston, Amy Tan đã viết về họ,
những người di dân góp phần làm nên lịch sử Mỹ như một thành viên chứ không phải
là một sự lệ thuộc. Lịch sử nước Mỹ, thành công của nước Mỹ có công sức của họ:
từ những người Hoa làm xe lửa ở San Francisco, đến những người Việt làm nên bộ
mặt thành phố San Jose…từ đóng góp của những y tá gốc Phi, những công ty phần mềm
gốc Ấn, đến những tiệm nail gốc Việt…
Dòng văn chương da-màu-mới, trong bối cảnh di dân đương đại ít than vãn hơn, ít dùng những
hồi ức không tưởng về truyền thống lịch sử họ để đòi chỗ đứng xứng đáng gần trung tâm hơn trong cộng đồng dân tộc Mỹ. Những mô tả về những
người ở quê hương không nằm trong quá khứ mà thường là những tiến trình đang xảy ra, vì những quan hệ
xuyên quốc gia vẫn tiếp diễn, nếu không muốn nói chúng đã biến thành kinh nghiệm phổ quát
của đa số con người trên mặt đất ở thế kỷ chúng ta. Bởi lẽ, những quan hệ xuyên quốc gia ngày nay đã trở
nên phổ biến, chuyện du lịch, làm việc, định cư tại một nước khác không còn là
chuyện xa lạ hay thiểu số để trở thành một đề tài đắm đuối. Sáng tác xuyên quốc
gia của những nhà văn Việt Nam như Lí Lan, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Việt Linh, Đỗ
Hoàng Diệu, Phan Việt, Dương Thuỵ, Ngô Thị Giáng Uyên… (Việt Nam), Lư Tân Hoa,
Trương Duyệt Nhiên, Quách Tiểu Lộ, Hồng Ảnh… (Trung Quốc), H.Murakami… (Nhật)…
là những ví dụ cho thấy khái niệm “văn học di dân” ngày nay mang tính chất toàn
cầu (chữ dùng của Nguyễn Hưng Quốc là giải lãnh thổ hóa) và được hiểu với một
biên độ rất rộng.
Văn học di dân theo quan điểm của
người viết đã trình bày ở trên thường được viết bằng hai loại ngôn ngữ chính:
ngôn ngữ thiểu số (tức ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc) và ngôn ngữ nước sở tại
(cụ thể ở đây là tiếng Anh). Nếu bạn chọn
viết bằng ngôn ngữ thiểu số thì sẽ dễ dàng hơn vì đó là ngôn ngữ máu thịt, vì có
một lượng độc giả cố định của cộng đồng mình, nhưng đồng thời cũng đối mặt với
những khó khăn là lượng độc giả biết tiếng mẹ đẻ càng ngày càng ít đi. Một khó khăn
nữa của dòng văn học này là “miếu lớn không nhận, chùa nhỏ không thu”, nghĩa là
văn học nước sở tại cũng không thu nhận, mà văn học dòng chính ở trong nước
cũng không đồng tình, ở trong thế chênh vênh và nghịch lí như vậy.
Theo
thống kê sơ bộ, sinh hoạt văn học Việt Nam ở Mỹ hiện nay không còn sôi nổi như
thập niên 90 của thế kỷ 20 nữa. Các tờ tạp chí văn học (Văn, Văn học, Thơ, Hợp
lưu, Da màu…) phải đóng cửa gần hết nhường chỗ cho các tạp chí văn học mạng. Chúng
tôi liệt kê dưới đây một số tờ báo văn học nghệ thuật tiêu biểu để thấy sự phát
triển của văn học hải ngoại tại Mỹ:
-
damau.org của
nhóm Đặng Thơ Thơ, Đinh Từ Bích Thúy, Đỗ Lê Anh Đào, Phùng Nguyễn, Nguyễn Hoàng
Nam…có bản in (paper) lẫn bản điện tử (website).
-
gio-o.com của Lê
Thị Huệ, bản điện tử.
-
diendantheky21
thuộc tờ Người Việt do Phạm Xuân Đài phụ trách, bản điện tử.
-
vietnamlit.org do
Dan Duffy, Dinh Linh chủ trương, đăng tiếng Anh dịch tác phẩm của Lí Lan, Trần
Diệu Hằng, Nguyễn Quốc Chánh…, bản điện tử.
-
cothommagazine.com
tờ báo vùng Đông Bắc nước Mỹ, chuyên về văn học, có bản in lẫn bản điện tử. Chủ
nhiệm và chủ bút là nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Dung. Ngoài ra còn có Trần Bích
San, Dương Như Nguyện…đồng nhóm tác giả với tờ vietthuc. In thành số tạp chí 3
tháng/lần.
-
hopluu.net lúc đầu
do Khánh Trường chủ biên, hiện nay là Đặng Hiền. Có bản in lẫn bản điện tử.
-
networkedblog.com
do Issabelle Thuy Pelaud, Andrew Lam, Rebekah Linh… chủ biên, viết tiếng Anh nhằm
mục đích phát triển nghệ thuật (âm nhạc, văn học, hội họa…) của cộng đồng Việt
Nam di dân (DVAN: Diasporic Vietnamese Artists Network). Đăng tải nhiều thông
tin và tác phẩm của các nhà văn viết tiếng Anh như Dinh Linh, Monique Truong,
Andrew Lam, Angie Chau, hoạt động chủ yếu vùng San Francisco, bản điện tử.
Về
sách văn học, số lượng bản in cho mỗi đầu sách cũng giảm dần từ con số 1500 cuốn
chỉ còn khoảng 250 cuốn.
Gia
nhập vào hàng ngũ những nhà văn di dân viết dòng chính là một chọn lựa không dễ
dàng. Khi chọn lựa viết bằng tiếng nước di dân (ở đây, cụ thể là tiếng Anh) thì
những nhà văn này đối mặt với một khó khăn: đó là phải cạnh tranh với những nhà
văn Hoa Kỳ viết thuần thục bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, và còn phải cạnh tranh với
cả những nhà văn thuộc cộng đồng thiểu số khác như Mexico, Trung Quốc, Nhật Bản,
Ấn Độ… sống ở Mỹ.
Nội dung của văn học di dân tập trung vào một số mảng đề
tài chính sau đây:
1.Viết về quê nhà. Nhà/quê nhà chỉ có
ý nghĩa sâu sắc đối với những người mất/không có/xa nhà/quê nhà. Vậy khái niệm này nói lên cái khoảng
cách (distance) xa rời: nhà là một điểm cố định và ở đầu kia là đất khách, là lữ
thứ, du hành. Hiểu như vậy nên chúng ta không ngạc nhiên khi những nhà văn hiện
đang sống trên xứ sở của mình đã không đặt vấn đề, không bị dằn vặt quay quắt về
vấn đề này trong tác phẩm của họ. “Nhà/quê nhà” không là một điều họ cần phải
nói tới. Trong trường hợp nếu họ chủ ý nói tới thì “nhà” lại được thường được
hiểu giới hạn là quê hương, nhất là tổ quốc.
Tâm thái vô xứ là tình cảm và trí tuệ của một người vô sở cứ, tự
sáng tạo cho mình một ngôn ngữ, một tiếng nói, một diễn ngôn của kẻ vô sở cứ.
Tiếng nói đó, diễn ngôn đó xác định mình không có một nơi chốn, không đặt mình
vào một truyền thống nào hoặc mang trong mình quá nhiều luồng văn hóa, băng
ngang những biên giới để lắng nghe tiếng thầm thì của cái bất khả hữu
(l’impossible), đẩy sự bất khả đó cận kề với cái khả hữu (le possible).
Quê nhà còn là chủ đề để họ viết về những biến cố lịch sử của
dân tộc họ. Ví dụ như viết về cuộc chiến Nam-Bắc Triều Tiên, về Cách mạng văn
hóa Trung Quốc, về biến cố 1975 của Việt Nam… Một số tác phẩm tiêu biểu như Đợi chờ của Cáp Kim, Đỗ Quyên Đỏ của Anchee Min, Những kẻ sống bên lề của Yiyun Li, The Gangster We Are All Looking For (Kẻ
du đãng mà chúng ta đang tìm kiếm) của le thi diem thuy…
2.Viết về những va đập Đông-Tây. Cuốn Fruit’n Food của Chang Leonard miêu tả
những xung đột ẩm thực của cộng đồng Mỹ gốc Hàn và gốc Phi châu sống tại Mỹ.
Ở chủ đề này Amy Tan (Tần Ái Mỹ) và Yiyun Li (Lý Diệu
Vân) có những tác phẩm xuất sắc. Phúc lạc
hội, Trăm miền ẩn thức, Con gái thầy lang (Amy Tan), Ngàn năm thiện nguyện (Yiyun Li)…đều
miêu tả những khó khăn khi muốn hòa nhập mà không hòa tan trên đất Mỹ
3.Viết về những trải nghiệm cá nhân sinh sống trên đất Mỹ.
Cuốn Over the Shoulder (2000) (tạm dịch:
Qua bờ vai), Underkill (2003) (tạm dịch:
Giết ngầm) của Chang Leonard kể về cuộc sống của những nhân viên bảo vệ ở thung
lũng Silicon miền Bắc California, nơi tập trung rất nhiều người dân Mỹ gốc Á
sinh sống. Trong quá trình tìm kiếm hung thủ giết chết người bạn của mình,
Allen Choice phát hiện nhiều bí mật về gia đình và nguồn gốc bản thân.
4. Giới thiệu văn hóa quê hương. Đặc biệt là những nền
văn hóa lớn như Trung Quốc, Ấn Độ. Có nhiều lý do những cuốn sách này bán chạy:
nó là huyết mạch của nhà văn nên thường được viết rất tốt, thứ hai, người Mỹ
thích tìm hiểu về văn hóa nước khác. Có những lúc, sách của Lâm Ngữ Đường từng
được xếp vào best-selling vì nói đến văn hóa, con người Trung Hoa (Cuốn My country and my people, ở Việt Nam dịch:
Trung Hoa đất nước con người). Vì vậy,
những cuốn sách viết về văn hóa hoặc có yếu tố giới thiệu văn hóa luôn được
hoan nghênh. Ví dụ hình ảnh cây cầu khỉ ở miền quê Nam bộ, chi tiết phóng sinh
cầu phúc… trong Monkey Bridge (Cầu khỉ)
của Lan Cao, cúng Phật trong Trộm đồ cúng
Phật của Bich Minh Nguyen, ẩm thực Việt Nam trong truyện Monique Truong…
II.
NHỮNG NHÀ VĂN NỮ DI DÂN VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
Người sáng tác bằng tiếng Việt hầu như chỉ có độc giả ở ngoài nước
đọc tiếng Việt. Người viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp tuy có cái lợi hơn là
được độc giả Âu-Mỹ đọc nhưng số độc giả người Việt đọc họ phải nói là rất hiếm
hoi. Hai
năm vừa qua, giải thưởng văn học Pen International ở Mỹ đều có những nhà văn trẻ
Việt Nam ở hải ngoại tham gia và đoạt giải cao. Những tên tuổi như: Mộng Lan,
Monique Trương, Bích Minh Nguyễn… thường gây sửng sốt cho bạn đọc Mỹ qua những
tác phẩm viết bằng tiếng Anh. Nhưng
họ có một mẫu số chung: sách của họ hầu như không được độc giả Việt trong nước
biết tới. Trừ một vài trường hợp hiếm hoi: Nguyễn Mộng Giác in sách trong nước
(Sông Côn mùa lũ), Lữ Quỳnh, Trần
Hoài Thư, Trần Mộng Tú có một ít truyện ngắn trong các tuyển tập trong nước…Khác
với các nhà văn di dân ở châu Âu, mức độ phổ biến tác phẩm của họ dày đặc hơn
(Kiệt Tấn, Nguyễn Văn Thọ, Thuận, Linda Lê, Đoàn Minh Phượng, Lê Minh Hà, Miêng…
đều có sách in và độc giả trong nước).
Văn học nữ hiện nay đạt được nhiều
thành tựu trên thế giới, và trở thành một hiện tượng mang tính toàn cầu. Nhà văn nữ hiện nay không chỉ là một
bộ phận mà còn là niềm vinh quang cho một nền văn học. Tại Hoa Kỳ, sáng tác của
các nhà văn nữ gốc Việt cũng thu hút khá nhiều độc giả và các nhà phê bình.
Trong khuôn khổ nghiên cứu, chúng tôi đã tiếp xúc với khoảng 40 nhà văn nữ hiện
đang sinh sống và viết văn ở Mỹ bằng cả hai thứ tiếng Việt và Anh. Thế hệ nhà
văn một và một rưỡi (1st generation và 1.5 generation) thường viết
bằng tiếng Việt như Nhã Ca, Trùng Dương, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Lê Thị Huệ,
Đặng Thơ Thơ… Thế hệ nhà văn thứ hai (2nd generation) thường dùng
tiếng Anh như Monique Truong, Bich Minh Nguyen, lê thi diem thuy, Aime Phan,
Angie Chau, Mai Elliot… Cá biệt có người dùng cả hai ngôn ngữ để viết văn như
Đỗ Lê Anh Đào.
Không thể so sánh với Linda Le ở Pháp hay Nam Le ở Úc về
mức độ nổi tiếng trên văn đàn “dòng chính”, nhưng những nhà văn nữ Việt Nam viết
bằng tiếng Anh ở Mỹ cũng trở thành một lực lượng hùng hậu của văn học di dân Việt
Nam, và trên một mức độ nào đó, cũng là một đóng góp vào văn học “dòng chính” của
Mỹ.
Thế hệ những nhà văn khá lớn tuổi viết văn dòng chính ở Mỹ
có lẽ bắt đầu từ thập niên 90 của thế kỷ XX. Có thể kể trước hết là Le Ly
Haslips với tác phẩm When Heaven and
Earth Changed Places (Khi Trời và Đất đổi chỗ) xuất bản năm 1989. Cuốn sách này được báo chí khen ngợi
như báo Los Angeles Times đăng trích từng kỳ, báo
New York Times Book Review cũng trích đăng, cuốn sách thứ hai: Child of
War, Woman of Peace (Trẻ em của chiến
tranh, Phụ nữ của hòa bình) xuất bản năm 1993 được báo Publisher's Weekly nhận xét: “Gây sốc và gây cảm hứng ngay lập
tức… mang kịch tính và sự ghê rợn, với những quan sát hết sức sắc bén về những
nạn nhân Việt Nam và Mỹ trong cuộc chiến tranh”. Dựa trên hai cuốn sách này, Oliver Stone đã dựng thành bộ phim
Trời và Đất. Trong lời đề từ của cuốn
sách thứ hai, Lệ Lý đã đem đến cho độc giả Mỹ một thử thách: “ Hầu hết độc giả
đọc cuốn sách này đều không trải qua cuộc sống như của tôi. Do những ân sủng của
số phận, của sự may mắn, của Chúa, các bạn không biết rằng sống sót khó biết chừng
nào… Ngay giờ phút này, có hàng triệu người nghèo trên thế giới, phụ nữ, đàn
ông, trẻ em, đang sống cuộc sống theo cái cách mà tôi đã trải qua để sống sót.
Giống như tôi, họ không yêu cầu chiến tranh, cái đang nuốt chửng họ. Họ chỉ muốn
hòa bình, tự do để yêu và để sống một cuộc sống đủ đầy- không gì hơn. Tôi chỉ
mong muốn các bạn hãy mở rộng trái tim, và hướng về họ giống như các bạn đang mở
lòng với tôi khi đọc cuốn sách này và đừng nghĩ rằng cuốn sách của chúng ta đã
kết thúc.”
Hiện nay, Lệ Lý đang là chủ tịch của tổ chức East
Meets West (Phương Đông gặp phương Tây), bà đã nỗ lực làm tăng sự hiểu biết giữa
hai nền văn hóa cho người Việt tại Mỹ và cải thiện cuộc sống của người Việt Nam
tại Việt Nam. Trong những năm qua, tổ chức này tập trung vào những công việc từ
thiện trong lĩnh vực y tế, giáo dục, trẻ em, đặc biệt là ở Đà Nẵng, quê hương của
bà.
Nhà văn thứ hai, trẻ hơn, là Dương
Văn Mai Elliott với cuốn sách The
Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family (Cây liễu linh
thiêng: Bốn thế hệ trong cuộc đời một gia đình Việt Nam) thực chất không hẳn là
một cuốn tiểu thuyết mà là một cuốn sách điều tra, nhưng được nhìn dưới mắt một
tiểu thuyết gia, nói về kinh nghiệm của một người sống trong một gia đình VN có
bốn thế hệ và qua đó phơi bày dòng chảy lịch sử Việt Nam.
Bắt đầu từ ông cố,
một nông dân Trung Quốc lưu lạc đến Việt Nam và trải dài đến hiện tại, Mai
Elliott dẫn cuộc phiêu lưu của gia đình thông qua những biến cố phức tạp của thời
đại. Cô kể cho chúng ta nghe về tuổi thơ sống trong cửa hàng tạp hóa của bà, chứng
kiến cảnh Pháp xâm chiếm ngôi làng, kể về những chọn lựa làm phân lìa những gia
đình Việt Nam: cha cô làm nhân viên nhà nước thời Pháp thuộc, chị cô theo Việt
Minh, trải qua những tháng ngủ trong rừng với đứa con nhỏ, ngày sợ pháo, đêm sợ
cọp…rồi cô dẫn chúng ta đến với những thành viên khác trong gia đình cho đến
ngày chính quyền Sài gòn sụp đổ.
Dựa trên những
gia phả, ghi chép gia đình, những cuộc phỏng vấn và nghiên cứu khác nhau, cuốn
sách này không chỉ là một kỷ niệm gia đình, mà còn là một ghi chép bằng cách
nào mà người Việt Nam trải qua những năm tháng của chính họ.
Cuốn sách của
Mai Elliott đã được đề cử giải Putlizer năm 2000. Cô còn là người dịch hồi ký của
bà Nguyễn Thị Định ra tiếng Anh.
Lan Cao là một luật sư hiện đang giảng dạy môn luật quốc
tế ở trường đại học luật William và Mary. Cuốn sách nổi tiếng của cô là Monkey Bridge (Cầu khỉ) xuấn bản năm
1997. Nhiều nhà phê bình cho rằng phong cách của cô chịu ảnh hưởng của cuốn Nữ chiến binh (The Woman Warrior) của
Maxine Hong Kingston (một nhà văn nữ Trung Quốc nổi tiếng sống ở Mỹ). Cô cũng
là đồng tác giả cuốn Everything You Need to Know about
Asian American History (Tất cả những gì bạn cần biết về lịch
sử người Mỹ gốc Á) với Himilce Novas. Cầu
khỉ viết về thân phận của hai người phụ nữ, hai mẹ con Thanh và Mai di dân đến
Mỹ năm 1975 với những chủ đề chính: nỗi cô đơn, nhớ nhà, xa cách chồng và cha, sự
hòa nhập khó khăn về ngôn ngữ và văn hóa của người Việt trên đất Mỹ, khoảng
cách thế hệ…Tờ Chicago Tribune nhận
xét: “độc giả phương Tây may mắn có Lan Cao với tác phẩm đi qua cuộc chiến chạm
đến nỗi đau trái tim của Việt Nam”.
Thế hệ trẻ hơn, được gọi là thế hệ 1.5 hay 2 cũng có một
số nhà văn chọn viết bằng tiếng Anh, như Monique Truong, Andrew Lam, Lê Thị Diễm
Thúy, Dao Strom, Aime Phan, Angie Chau… cùng với một số nhà văn kiêm nhà phê
bình viết bằng tiếng Anh như Issabela Thuy Paulaud, Nathalie Huynh Chau Nguyen,
Ton Nu Nha Trang, Rebekah Linh…
Nhà văn có lẽ nổi tiếng nhất là Monique Trương, sinh năm 1968 ở Saigon, cùng với gia đình di tản sang
Mỹ sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975, học tiểu học ở North Carolina, trung học ở
Houston, Texas, tốt nghiệp cử nhân văn chương Anh Mỹ ở Yale và luật ở Columbia,
hiện sống ở New York City. Là tác giả của hai tiểu thuyết The
Book of Salt (Sách muối) và Bitter in
the Mouth (Đắng nghét trong miệng). Khi trở thành nhà văn, cô đã bỏ nghề luật.
Ngoài đời, Monique Truong là một người phụ nữ rất thích ẩm thực. Cô cảm nhận
mùi vị thức ăn trước hết là trong tâm trí mình, sau đó mới là ngoài đời. Cô tiếp
cận một công thức nấu ăn như là một câu chuyện. Cả hai cuốn tiểu thuyết của cô
đều liên quan đến ẩm thực như một chi tiết văn hóa, hoặc một ẩn dụ văn học.
Trong cuốn Sách muối (nxb
Houghton-Mifflin, 2003), nhân vật chính là Bình, một đầu
bếp, làm việc ở Pari, sau đó sang Mỹ, quay trở về Việt Nam. Tên sách, ban đầu
khi mới viết năm 1997, có tên là Seeds-
Hạt (cũng liên quan đến ẩm thực), sau
đó, cô quyết định đổi tên là Book of Salt.
Muối, có hầu hết trong thực phẩm, trong nước mắt, và biển, được tìm thấy khắp
nơi trong cuốn sách. Trong tiếng Anh, “lương” (salary) là lấy từ chữ “salt”, vậy
thì muối ở đây, là một cách hiểu khác của sức lao động, của giá trị, của sự
đáng giá. Cuốn này được trao tặng
nhiều giải văn chương giá trị ở Mỹ như của Hiệp hội thư viện Hoa Kỳ năm 2004, nhận được tài trợ để sáng tác của PEN American
Robert Bingham Fellowship, Hodder Fellowship của đại học Princeton và
Guggenheim Fellowship.
Còn trong Bitter in
the Mouth (nxb Random House, 2010), nhân vật chính là Linda, người có vấn đề
về diễn đạt ngôn ngữ. Cuốn thứ hai được giới phê bình đánh giá rất cao. Nghệ
thuật vượt hẳn cuốn trước.
Ở Việt Nam, những từ biểu hiện hạnh phúc và chịu đựng thường
được dùng những từ mang tính chất nếm trải (vị giác). Hạnh phúc thì thường ngọt
bùi, chịu đựng thì dùng đắng cay, chua cay, khổ quá…Với Đắng nghét trong miệng,
M. Truong đã khám phá kinh nghiệm của một người đứng ngoài thông qua văn học.
Nhân vật chính: Linda Hammerick, chịu đựng một căn bệnh rối loạn giác quan rất
hiếm: cô trở thành người nổi tiếng nhìn một từ và đoán vị của nó, cách biệt và
độc lập với nghĩa của chúng: khi cảm giác bị kích thích bởi một sự vật lập tức
có cảm giác hay nhận thức về một sự vật khác (chứng “synesthesia”), ví dụ khi
nhìn một con chữ Linda lập tức cảm nhận được mùi vị của một món ăn. Chẳng hạn
chữ “you” cho Linda những mùi vị của đậu hột đóng hộp, chữ “home/nhà” gợi mùi vị
nước ngọt Pepsi, nghe từ mẹ, cô nghĩ đến sô cô la (từ chocolate là từ Aztec
xocolatl có nghĩa là nước đắng). Thử thách của Linda, cũng là bí ẩn trung tâm của
câu chuyện, là làm cách nào tháo gỡ rối loạn vị giác của cô, vứt bỏ cái đắng
cay từ cái ngọt bùi.
Sự kiện trong tiểu thuyết của
Trương không bao giờ như chúng dường như là, ngôn ngữ cô dùng có thể bị cưỡng bức, bị nhạt đi hoặc
bị xóa sạch tiếng mẹ đẻ. Truong, một nhà
văn của thế kỷ 21 viết về sự dịch chuyển, đi một chặng đường xa từ cái vị mà
Proust đã định nghĩa và “mùi hương” của Trần Anh Hùng trong Mùi đu đủ xanh. Chủ đạo trong việc cảm
nhận thế giới của cô là “mùi vị”. Mùi cá ngừ, gà chiên, hòa lẫn với mùi kem
Campell hay súp nấm. Sự lạc quan Mỹ, được so sánh nhấn mạnh với mùi bánh pancake
" những khả năng, sự ngọt ngào và thơm tho, tất cả trong hộp vui vẻ
này"...
Tác phẩm còn cho thấy ảnh hưởng của văn hóa Mỹ,
một nhân vật tên là Harper, không khó để nhận ra sự liên hệ với ảnh hưởng của
Harper Lee (Giết con chim nhại), hay
có thể là Harpers Ferry, một địa danh, nơi John Brown chống lại chế độ nô lệ của
miền Nam Mỹ), huyền thoại của Virginia Dare (nổi tiếng vì là đứa trẻ sinh ra đầu
tiên ở Bắc Mỹ), anh em nhà Wright, và nhà thơ nô lệ Geogre Moses Horton- người
giúp xác lập lịch sử văn hóa vùng North Carolina. Cuốn tiểu thuyết của cô tham
vọng làm sao có thể định nghĩa đúng cảm giác của bạn, cá nhân có thể chiến thắng
số phận địa lý và sinh học.
Nhìn chung, quyển
Bitter in the Mouth của Monique Trương là một tiểu thuyết đưa ra một cái
nhìn khác biệt về vấn đề khủng hoảng bản ngã, nhất là bản ngã của người nữ di
dân, vô xứ so với quan niệm thông thường của trí thức, nhà văn Mỹ đã có trước
đây. Monique Trương cho thấy cuộc tìm kiếm bản ngã của một người sinh ra ở một
nơi và trưởng thành ở một nơi không phải là quê hương là một lộ trình không có
điểm dừng, điểm tận cùng, không có một kết thúc chỉn chu, thỏa mãn mà chỉ là một
sự cần thiết, một sự chẳng đặng đừng.
Tạp chí Booklist
đưa ra nhận xét về Bitter in the Mouth: “Hấp dẫn…Trương là một người kể
chuyện tài tình, và trong quyển tiểu thuyết yên vắng nhưng đầy sức mạnh này cô
đã sáng tạo một nhân vật đáng chú ý và độc đáo.” Nhà văn nữ Jayne Anne Phillip
thì cho rằng “Quyển Bitter in the Mouth, mỗi chữ đều mặn mà, là một tỏ bầy
của sự thông minh dí dỏm, của trái tim, và của tài năng tuyệt vời.” Nhà văn nữ
gốc Trung Quốc Yiyun Li, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Ngàn Năm Thiện Nguyện
thì khuyên người đọc hãy “chuẩn bị hưởng một hàng đầy ắp những mùi vị của cuộc
sống trong Bitter in the Mouth: đó là những mùi vị của tình bạn, lòng
chung thủy, tình yêu, gia đình, và trên hết thảy là của những bí mật nằm ở mỗi
góc của lịch sử một con người, những bí mật đã làm thành con người chúng ta.
Monique Trương là một người quan sát giỏi và một nhà văn tuyệt mỹ.”
Lê Thị Diễm Thúy với cuốn The Gangster We Are All Looking for (Tên du đãng chúng ta đang tìm
kiếm) cũng là một nhà văn trẻ và cuốn sách của cô khi phát hành cũng gây xôn
xao như tác phẩm của Monique Truong (nói thêm ngoài đề là Le thi diem thuy đã về
Việt Nam và có giới thiệu cuốn sách này). Ngay từ trang đầu, thuy đã viết: “
Trong tiếng Việt, chữ để chỉ nước (water) và chữ để chỉ
một quốc gia (a
nation), một xứ sở, và một quê hương đều cùng
một chữ nước.” Quyển sách tương
đối mỏng, chỉ 158 trang, chia
làm 5 chương: Suh-top! (lối phát âm chữ Stop của
người mới bập
bẹ tiếng Mỹ), Palm (hiểu theo hai nghĩa vừa là cây cọ vừa là
lòng bàn tay), Tên Du Đãng Tất Cả Chúng Ta Đang Lùng Kiếm,
Xương Chim, và
chương cuối cùng: Nước (tác giả để nguyên chữ
viết Việt trong sách). Toàn bộ
cuốn sách với nhân vật chính chính là tác giả, kể về những ngày tháng đặt chân
lên đất Mỹ, cuộc sống vất vả của những di dân, ước mơ và khát vọng thay đổi.
Thông qua đó, hình ảnh người cha, một người lính cộng hòa cũng được thuy miêu tả
với tham vọng thay đổi cái nhìn chính trị và chiến tranh của cả hai bên. Cuối
cuốn sách là chuyến quay trở về Việt Nam sau 20 năm xa cách của chính tác giả.
Điểm trân trọng ở thuy là một
người trẻ Việt Nam di dân không những trung thực, can đảm mà còn có
tài năng
đã nói lên tiếng nói tự bản thân, gia đình, trái
tim mình về chiến tranh, về
người lính Miền Nam, và về “nước”
Việt Nam. Về kỹ thuật viết, vì lê thị diễm
thúy là
một nghệ sĩ trình diễn nên cô chưa thể có tay nghề của một nhà tiểu
thuyết
được học hỏi huấn luyện chính qui trong tác phẩm đầu tay của mình.
Nhưng cô đã viết ra những trang
sách đẹp, đọc dễ dàng, gây xúc động mạnh.
Điểm cuối cùng
và cũng là điểm son của lê thị diễm thúy: sách tuy viết bằng tiếng
Anh
nhưng ở nhiều chỗ cô vẫn để nguyên một số từ tiếng Việt. Tại sao vậy? Trước hết,
về mặt ngữ học, ngôn ngữ
nhiều khi không thể có những từ song sinh, nghĩa là một
từ trong
một ngôn ngữ này khi chuyển dịch sang một ngôn ngữ khác có thể
chuyên chở toàn vẹn ý nghĩa nguyên thủy. Chẳng hạn chữ
“nước” lê thị diễm thúy
đã nhắc tới. Và còn những từ con cái xưng
hô với cha mẹ: “Má”, “Ba”, phở
để
nguyên từ tiếng Việt... Khi đọc The Book
of Salt chúng ta cũng thấy Monique Trương đã để nguyên những
từ như Má, áo
dài, phở, Anh ...trong cuốn sách của mình. Việc
sử dụng nhiều ngôn ngữ trong tiểu thuyết mở ra
những khả tính mới cho ngôn từ:
càng du nhập và
đồng hóa nhiều ngôn ngữ đa văn hóa bao nhiêu thì sẽ càng trở
nên phong phú bấy nhiêu. Phần đông những nhà văn di dân nổi tiếng ngày nay tuy
họ sử
dụng tiếng Anh để sáng tác nhưng đa số không bao giờ nhận mình là
một
nhà văn Mỹ hay một nhà văn Anh. Toni Morison, giải thưởng
Nobel Văn chương
luôn gọi mình là một nhà văn Mỹ
gốc Phi châu (African-American writer), Salman
Rushdie không bao giờ
chấp nhận người ta gọi mình là một nhà văn Anh hay một
nhà
văn châu Âu. Văn chương Mỹ hiện đại
đã phải chấp nhận một thứ Spanglish
mới cũng như đã phải
chấp nhận một thứ tiếng Anh của người da đen từ hơn nửa
thế kỷ
nay. Mười năm trở lại đây những nhà văn thuộc thế hệ mới như
Sandra
Cisneros, Julia Alvarez, Denise Chavez...đã mạnh dạn tiếp
tục bước theo lớp những
nhà văn di dân tiên phong thế hệ
trước, đem vào tiểu thuyết mới những sắc thái
văn hóa đa chủng trong đối thoại, trong văn phong, trong xây dựng nhân vật...và
sách của họ đã được đông đảo quần chúng độc giả cũng như
những nhà phê bình
văn học mến mộ và cũng đã được đưa vào những
cuốn văn tuyển dùng trong các trường
trung và đại học.
Do khuôn khổ một bài báo cáo, chúng tôi không thể viết
dài hơn về các nhà văn nữ di dân Việt Nam viết bằng tiếng Anh thêm nữa. Chỉ xin
liệt kê thêm một vài gương mặt nổi bật khác.
Dao Strom vừa là một nhà văn, vừa là một ca sĩ, nhạc sĩ.
Cô là con gái của nhà văn, nhà báo Trùng Dương nổi tiếng một thời ở Sài Gòn trước
1975. Là tác giả của hai tập truyện ngắn Grass Roof, Tin Roof, (Nhà tranh, Nhà sắt, Houghton Mifflin/Mariner books, 2003) và The Gentle Order of Girls & Boys, (Mệnh lệnh hòa
nhã của con trai và con gái, Counterpoint
press, 2006)
Bich
Minh Nguyen với
hồi ký Stealing Buddha’s Dinner
(Trộm đồ cúng Phật) do nhà Penguin xuất bản đầu năm 2007 được trao giải thưởng
PEN/Jerard của Trung tâm PEN American. Cô kể lại chuyến đi rời bỏ quê hương,
kinh nghiệm một di dân Á châu trên đất Mỹ, cuộc sống pha trộn nhiều sắc thái
văn hóa khác nhau trong gia đình, tình cảm thương mến đậm đà dành cho Nội với
những món ăn thuần túy Việt Nam như phở, chả giò, giá, tôm rang, canh chua… Nội
đã cho cô bé ăn và nhất là bàn thờ Phật của Nội có bày hoa quả và những món
chay cúng Phật cô bé đã có lần ăn trộm.
Angie Chau với tập truyện ngắn Quiet As They Come (Âm thầm họ đến), nxb IG Publishing, 2010.
Aime
Phan với tác phẩm đầu tay We Should Never Meet (Chúng ta
đừng nên gặp nhau), được giải Sách Quý của Kiryama Prize về tiểu thuyết và vào
chung khảo giải Văn chương Mỹ gốc Á năm 2005 (Asian American Literary Awards).
Tác phẩm của cô xuất hiện trên The New York Times, USA Today và The
Oregonian. Hiện là giáo sư phụ tá tại California College of the Arts.
KẾT LUẬN
Với tham vọng là một công
trình dài hơi hơn, chúng tôi hy vọng sẽ có điều kiện tìm hiểu và giới thiệu rộng
rãi hơn nữa chân dung, diện mạo của văn học nữ di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ nói
riêng, và văn học di dân nói chung. Nên gọi mảng văn học này thuộc văn học Hoa
Kỳ, hay thuộc văn học nước nhà? Có lẽ nội dung trong các tác phẩm mà chúng tôi
giới thiệu trên đây đã nói lên điều đó. Nói riêng trong văn học Hoa Kỳ, đóng
góp của họ là không thể phủ nhận. Trong thời đại toàn cầu hóa và trong trào lưu
dân chủ của
thiên niên kỷ mới này, hướng
phát triển ảnh hưởng văn hóa
kinh tế chính trị ngày nay không phải từ nước Mỹ
tỏa rộng ra thế
giới như trong 50 năm trước nữa mà nay ảnh hưởng này có xu
hướng
đi ngược lại: chính từ những di dân đến đây đã mang vào
ngay trong lòng nước Mỹ
những nét văn hóa bản xứ. Họ đã đóng
góp tài năng trí tuệ vào nền văn hóa kỹ
thuật tạp chủng
của Mỹ, biến nền văn hóa mở này có tính cách toàn cầu hơn. Đó là
một điều không thể tránh được, không thể ngăn cản. Văn học đã trở thành toàn cầu,
không biên
giới. Đi hàng đầu là nền Văn học Di Dân đã phát triển vững
mạnh và
trở thành trào lưu văn chương chính yếu trên thế giới
từ hơn hai thập niên gần
đây.
Xét riêng trong văn học nước
nhà, như đã giới thiệu ở phần đầu, những nhà văn Việt Nam sinh sống tại châu Âu
được công chúng trong nước biết đến nhiều hơn những nhà văn Việt Nam sinh sống
tại Hoa Kỳ. Do đó trong tương lai, chúng tôi hy vọng những giới thiệu của mình
sẽ giúp cho công chúng Việt Nam tiếp cận gần hơn với các nhà văn này, và đó
cũng là những mong mỏi của họ trong những bài trả lời phỏng vấn của chúng tôi
(sẽ xuất hiện trong công trình mà chúng tôi đang thực hiện).
TÓM TẮT
Trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu Học giả Fulbright 2010-2011,
chúng tôi thực hiện đề tài về văn học nữ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Bài viết là một
phần của công trình này. Bài viết bước đầu giới thiệu về cộng đồng di dân Việt
Nam tại Hoa Kỳ, diện mạo và đặc điểm của văn học di dân châu Á, dừng chân ở việc
giới thiệu kỹ các nhà văn nữ Việt Nam viết văn dòng chính tại Hoa Kỳ như một ví
dụ cho khái niệm: lằn ranh văn học dân tộc và văn học thế giới, ranh giới giao
thoa văn hóa nước sở tại và văn hóa quê nhà…
Qua
việc nghiên cứu tác phẩm của họ, bao gồm tác phẩm của Le Ly Hayslip, Mai
Elliot, Lan Cao, Monique Truong, le thi diem thuy, Aime Pham, Bich Minh Nguyen…
là những nhà văn nữ Việt Nam, tuy viết bằng tiếng Anh, thuộc văn học dòng chính
nhưng cũng lại thuộc dòng văn học thiểu số ở Mỹ (một phần của văn học Mỹ),
chúng ta thấy rằng những vấn đề mà họ phản ánh trong tác phẩm của mình như thân
phận người nhập cư, hòa nhập Đông Tây, va chạm thế hệ, truy tìm nguồn gốc…cũng
là những vấn đề của văn học dân tộc và văn học toàn cầu.
ABSTRACT
Introducing Vietnamese American Female Writers in
Mainstream Literary
In six months Fulbright Scholar Program project in the US (2010-2011), we
research the topic about Vietnamese American Female Writers. This article is
part of our project. This is the first step to introduce the Vietnamese
diaspora community in the US, face and characteristics of Asia diasporic
literary. We are more details in mainstream Vietnamese American female writers
as a case study illustrating for the concept: the border of national literary
and world literary, the border of interfering Vietnamese culture and American
culture.
Thoughout researching their works, including Le Ly Hayslip, Mai Elliot,
Lan Cao, Monique Truong, le thi diem thuy, Bich Minh Nguyen, Aime Phan, Angie
Chau…’s works, we know that they are Vietnamese female writers, written in
English, belong to both mainstream literature and ethnic literature. Their
topics such as immigrant people, East- West affiliation, generation gaps,
identity… are also topics of national literature and world literature.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Images of
Asian American Women by Asian American Women Writers - Esther Mikyung
Ghymn, Peter Lang Pub 1995.
2. Filthy
Ficton, Asian American Literature by Women- Monica Chiu, Altamira Press
2004.
3. Asian
American Literature, Reviews and
Criticism of Works by American Writers of Asian Descent, Laurence
J.Trudeau, Editor, Gale Research 1999.
4. Asian-American Writers (Bloom's Modern
Critical Views) by Harold Bloom (Editor), Infobase Publishing 2009
6. Encyclopedia of Asian American Literature, Seiwoong
Oh, Infobase Publishing 2007
7. Asian-American Women Writers (Women Writers
of English and Their Works), Harold Bloom,
Chelsea House Pubisher 1997.
8. Asian American Literature, Bella Adams,
Endinburg University Press, Ltd, 2008
Ở đây xin thống nhất dùng
khái niệm “văn học”-NV
Project Diaspora, Nguyễn Mộng Giác, theo chương trình
của William Joiner Center tài trợ năm 2001-2002: Sơ thảo về các giai đoạn thành hình và phát triển của giòng văn xuôi ở
hải ngoại từ 1975 đến nay.
Đây là quan điểm cá nhân, đưa ra cho người đọc tham khảo,
không đại diện cho quan điểm của người viết.